Khẩu Fabrique Nationale Fusil Automatique Leger, hay còn được gọi là FN FAL, xuất hiện lần đầu vào năm 1946 khi công ty FN và Vương quốc Anh hợp tác chế tạo một loại súng trường thử nghiệm sử dụng loại đạn 7.92x33mm của Đức.
Súng trường đối kháng FN FAL. |
Đây là một trong những loại đạn dược đầu tiên có thể dùng như đạn tiểu liên ở tầm ngắn và đạn súng trường ở tầm xa. Bằng chứng là việc súng trường tấn công đầu tiên thực sự trên thế giới là khẩu Sturmgewehr 44, một sự kết hợp giữa súng trường và tiểu liên, tỏ rõ tính năng của mình trong những tháng cuối cùng của Thế chiến II khi sử dụng đạn 7.92x33mm.
Mặc dù hứa hẹn rằng đạn sẽ được dùng trong các mẫu súng tương lai, cả FN và Anh quyết định sản xuất một loại đạn riêng dựa trên loại 7.92 có tên là 7x33mm, hay còn gọi là đạn cỡ trung .280. Đây là đạn dành cho các súng trường tấn công và nhiều mẫu súng thử đã được chế tạo và cũng giống như đạn của Đức, các cuộc thử nghiệm cho thấy những kết quả khả quan và người ta tin rằng đạn 7x33mm sẽ được sử dụng.
Thời đó, Mỹ vẫn có ảnh hưởng lớn đến châu Âu. Một loại đạn dược tiêu chuẩn (chứ không phải súng trường tiêu chuẩn) mới là nhu cầu chính vào cuối những năm 1940, bởi NATO mong muốn sử dụng một loại đạn chung để tiện lợi cho vận chuyển và có thể dùng với nhiều loại súng.
Với những am hiểu về thuốc súng, Đại tá Quân đội Mỹ Rene Studler đã cung cấp một loại đạn giống .30-06 được sử dụng trong Thế chiến II, ngắn hơn nhưng lại có sức công phá tương đương. Đạn của Studler không phải là dành cho súng trường tấn công, mà là loại đạn dành cho những súng trường bán tự động vẫn được sử dụng vào thời đó. Nó có tên là 7.62x51mm hay .308 Winchester. Đây cũng là loại đạn chính dành cho một loại súng mới của Mỹ, lúc đó vẫn còn đang thử nghiệm, gọi là T25.
Một đội quân đang cầm súng trường FN FAL. |
Vào năm 1950, khẩu T25 được thử nghiệm cùng với khẩu FAL và EM-2 của Anh, cả hai đều sử dụng loại đạn cỡ .280. Sau đó, phía Mỹ yêu cầu cả hai khẩu súng chuyển sang sử dụng loại đạn cỡ .30 của Studler. FN đã làm theo, thậm chí còn đưa ra thỏa thuận để Mỹ có thể sản xuất FAL, sử dụng loại đạn Studler mà không cần chứng nhận sở hữu.
Còn với người Anh, họ đã gạt bỏ ý định thay đổi cỡ đạn và tiếp tục và sử dụng khẩu EM-2 với đạn .280 vào lúc đó. Thế nhưng, một cuộc hội đàm giữa Tổng thống Harry Truman và Thủ tướng Winston Churchill đã chính thức khai tử loại súng và đạn dược trên. Người ta tin rằng giữa hai nước đã có thỏa thuận rằng Mỹ sẽ sử dụng FAL như một vũ khí tiêu chuẩn dùng trong quân đội nếu Anh cũng chấp nhận sử dụng đạn 7.62x51mm. Anh đã chấp thuận, và không những họ đã sử dụng đạn mới mà còn cả khẩu FAL nữa.
Về phía Mỹ, họ tiếp tục gặp khó khăn trong việc phát triển súng T25 cho đến khi nó vượt mặt khẩu FAL trong các cuộc thử nghiệm, rồi sau này trở thành khẩu M-14 vào năm 1959. Đến lúc đó, FAL dã sản xuất được 4 năm và đã rất thành công trong việc phát triển đối tác sản xuất và bên mua, điều đó phần nào đã đánh vào lòng tự tôn của Chính phủ Mỹ.
Anh là nước đầu tiên sản xuất biến thể của súng FAL, lúc đó gọi nó là súng trường tự nạp L1A1. Nhiều nước NATO sau đó cũng làm theo và đã cho ra mắt 2 loại biến thể dựa trên đơn vị đo lường của mỗi nước (inch hay centimet). Dù vậy, các khẩu súng trường về cơ bản có hình dáng giống nhau và nhanh chóng được ưa chuộng, khi súng tỏ rõ được tính năng của mình trong thời điểm quân Anh chống lại quân nổi dậy ở Malaysia vào cuối những năm 50 của thế kỷ trước. Trong khi đó, khẩu M-14 vừa mới ra đời đã phải cạnh tranh với một mẫu mới cũng thuộc dòng súng trường Mỹ là M-16.
Vì lý do đó, khẩu FAL trở thành vũ khí chính để bảo vệ ngọn cờ "chủ nghĩa tự do dân chủ" trong suốt những năm 60, 70 và 80, khi nó đối đầu với AK-47 của Liên Xô trong rất nhiều cuộc chiến tranh do Mỹ và Liên Xô hỗ trợ nổ ra khắp thế giới. Đôi lúc, FAL còn được sử dụng đối đầu nhau, khi cả quân Anh và Argentina đều được trang bị súng trong Chiến tranh Falklands năm 1982.
Quân đội Brazil với khẩu FN FAL trên tay. |
Thời kỳ này có lẽ là thời đỉnh cao của FAL, khi có lúc nó được sử dụng bởi hơn 90 quốc gia. Hình dáng có phần mảnh mai của FN FAL được cải tiến thành nhiều loại súng để đáp ứng nhiều nhu cầu khắt khe, với những phiên bản có báng sau gập lại dành cho lính dù, phiên bản trung liên có nòng súng lớn và nòng ngắn dành cho các linh Biệt kích. Được trang bị một băng đạn 20 viên, độ chính xác và sức công phá của súng vượt trội hơn AK khi bắn xa và ngang hàng với khẩu G3 của Tây Đức, cũng sử dụng cùng loại đạn .308.
Mãi đến những năm 90, khi các nước chuyển sang sử dụng loại đạn 5.56mm .223 nhỏ hơn, khẩu FN FAL mới bắt đầu đi vào quên lãng với việc quốc gia chính là Vương quốc Anh quyết định ngừng sử dụng súng vào năm 1986. Những cố gắng để chuyển đối FN FAL để sử dụng đạn .223 (còn có tên là CAL) đã không thành công và các nước khác cũng dần loại bỏ nó ra khỏi quân đội. Ngày nay, chỉ một vài nước đang phát triển vẫn còn sử dụng FN FAL và con số đó vẫn đang giảm xuống.
"Cánh tay phải của Thế giới Tự do", như trước đây FAL đã từng được gọi, có lẽ là một trong những khẩu súng trường vĩ đại nhất đã tham gia trong những tháng ngày bất an của Chiến tranh Lạnh. Dù không phải là súng trường tấn công, nó được coi là những súng trường cuối cùng với những chiến tích vang dội của đại gia đinh súng trường đối kháng có bề dầy lịch sử đồ sộ.
Theo Infonet
Mời bạn xem thêm:
Những khẩu súng dát vàng, nạm kim cương nổi danh thế giới
Bộ sưu tập súng xa xỉ và độc nhất trên thế giới
Khám phá nhà máy chế tạo súng trường tấn công chủ lực của Mỹ